Kinh tế quý 2 năm 2024

Kinh tế Việt Nam trong quý II và cả năm 2024 được dự báo sẽ tăng trưởng cao hơn. GDP quý II có thể đạt từ 5,9% đến 6,3%, giúp GDP nửa đầu năm 2024 tăng từ 5,8% đến 6,2%. Cả năm 2024, GDP có thể tăng từ 6% đến 6,5%. Tuy nhiên, áp lực lạm phát sẽ cao hơn so với năm 2023 do các yếu tố chi phí đẩy (bao gồm cả chính sách tiền lương mới) và các yếu tố cầu kéo (dự báo cung tiền và tốc độ quay vòng tiền tăng cao hơn).

8 điểm sáng và 6 thách thức của kinh tế Việt Nam quý I

Báo cáo chỉ ra rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn và phục hồi chậm, dự báo tăng trưởng thấp hơn năm 2023, kinh tế Việt Nam trong quý I/2024 vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực, ghi nhận 8 điểm sáng:

Báo cáo chỉ ra rằng trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn và phục hồi chậm với dự báo tăng trưởng thấp hơn năm 2023, kinh tế Việt Nam trong quý I/2024 vẫn đạt được nhiều kết quả tích cực, ghi nhận 8 điểm sáng, gồm:

  1. Hoàn thiện thể chế: Quốc hội và Chính phủ đã đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế và giải quyết các vướng mắc, điểm nghẽn để thúc đẩy tăng trưởng. Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai 2024 và Luật các TCTD 2024 cùng một số đạo luật, nghị quyết quan trọng khác trong kỳ họp bất thường. Chính phủ ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 5/1/2024 về nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách 2024, cùng Nghị quyết 2 về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
  2. GDP quý I tăng trưởng cao nhất trong 5 năm: GDP quý I tăng 5,66%, vượt mức dự kiến trong Nghị quyết 01. Các động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng đều tăng mạnh. Xuất khẩu tăng 17%, cán cân thương mại thặng dư hơn 8 tỷ USD, đầu tư tăng 4,7%, tiêu dùng cuối cùng tăng 4,93%. Khu vực nông-lâm-ngư nghiệp tăng gần 3%, công nghiệp và xây dựng tăng 6,28%, dịch vụ tăng 6,12%.
  3. Động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi đồng đều: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu quý I/2024 đạt 178 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Thu hút vốn FDI đạt 6,17 tỷ USD, tăng 13,4%. Tiêu dùng, du lịch và giải ngân vốn đầu tư công cũng đều tăng mạnh.
  4. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát: CPI bình quân quý I/2024 tăng 3,77%, lạm phát cơ bản tăng 2,81%, thấp hơn mức 2,84% của hai tháng đầu năm. Giá xăng dầu và chi phí vận tải tăng do xung đột Biển Đỏ, nhưng các nguyên vật liệu đầu vào giảm giá và cung tiền tăng chậm đã giúp kiểm soát lạm phát.
  5. Lãi suất giảm, tín dụng tăng: Mặt bằng lãi suất giảm, hỗ trợ doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Tín dụng tăng trở lại, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu doanh nghiệp đều có dấu hiệu phục hồi.
  6. Thu ngân sách nhà nước tăng: Thu ngân sách nhà nước trong quý I đạt gần 540 nghìn tỷ đồng, bằng 31,7% dự toán năm và tăng 9,8%. Chi ngân sách tăng 8,3%, thặng dư ngân sách đạt 146 nghìn tỷ đồng, tạo dư địa cho chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp và người dân.
  7. Quy hoạch và đầu tư hạ tầng: Các địa phương đã công bố quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn 2050. Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII cũng đã được ban hành.
  8. Đối ngoại và hội nhập quốc tế: Việt Nam và Úc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện, đưa Úc trở thành quốc gia thứ 7 có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Điều này góp phần nâng cao vị thế quốc tế và thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch và khoa học công nghệ.

Tuy nhiên, TS. Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cũng chỉ ra 6 thách thức chính mà kinh tế Việt Nam phải đối mặt:

  1. Thách thức từ bên ngoài.
  2. Cơ cấu lại nền kinh tế và giải ngân một số chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm.
  3. Một số động lực tăng trưởng truyền thống như đầu tư tư nhân và tiêu dùng phục hồi chậm và còn yếu, trong khi thể chế cho các động lực tăng trưởng mới chậm ban hành.
  4. Doanh nghiệp còn đối mặt với nhiều khó khăn.
  5. Tín dụng tăng chậm, nợ xấu và tỷ giá tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát.
  6. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường bất động sản phục hồi chậm.
  7. Kinh tế vĩ mô 2 tháng đầu năm 2024 cơ bản ổn định

Dự báo kinh tế Việt Nam quý II và cả năm 2024

Trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại nhưng lạm phát và lãi suất giảm, cùng với đà phục hồi nội tại và các nỗ lực cải thiện thể chế, môi trường đầu tư – kinh doanh của Quốc hội và Chính phủ, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV dự báo kinh tế Việt Nam trong quý II và cả năm 2024 sẽ tăng trưởng cao hơn trong khi lạm phát được kiểm soát trong mục tiêu.

Tăng trưởng GDP: Báo cáo dự đoán với kết quả tăng trưởng khả quan của quý I và các yếu tố rủi ro bên ngoài được kiểm soát, các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) sẽ được khai thác hiệu quả hơn. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố. Dự báo tăng trưởng GDP quý II có thể đạt 5,9-6,3%, giúp GDP nửa đầu năm 2024 tăng 5,8-6,2% và cả năm 2024 có thể tăng 6-6,5% (theo kịch bản cơ sở), hoặc thậm chí 6,5-7% (kịch bản tích cực).

Lạm phát: Nhóm nghiên cứu dự báo áp lực lạm phát năm 2024 sẽ cao hơn năm 2023 do yếu tố chi phí đẩy (lương tối thiểu vùng tăng 6% từ ngày 1/7/2024 ước tính sẽ khiến CPI tăng thêm khoảng 0,03 điểm %) và yếu tố cầu kéo (cung tiền và vòng quay tiền dự báo tăng cao hơn năm 2023 cùng với đà phục hồi của nền kinh tế). Tuy nhiên, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát và không đáng lo ngại (CPI bình quân tăng khoảng 3,4-3,8% theo kịch bản cơ sở) nhờ các yếu tố hỗ trợ kiềm chế lạm phát như giá cả và lạm phát toàn cầu đang hạ nhiệt, giá dầu dự báo ổn định, cung tiền tăng nhưng vòng quay tiền còn chậm (0,7-0,9 lần), và tỷ giá ổn định hơn với sự phối hợp chính sách tốt hơn.

Kiến nghị cụ thể để đạt mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát:

  • Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 01 và 02/NQ-CP: Các Bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục thực hiện các nghị quyết và chỉ thị gần đây của Quốc hội và Chính phủ, phân tích và dự báo diễn biến thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế, giá dầu thế giới để có kịch bản ứng phó phù hợp. Tăng cường bình ổn và lành mạnh hóa thị trường tài chính, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp để củng cố niềm tin nhà đầu tư và người dân.
  • Hoàn thiện thể chế: Tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô bằng cách ban hành và thực thi hiệu quả các chính sách, giải pháp tháo gỡ vướng mắc về pháp lý, định giá đất, hoàn thuế GTGT, tiếp cận vốn, phát triển nhà ở xã hội. Đồng thời, ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn đảm bảo nhất quán, đồng bộ các luật mới được Quốc hội thông qua như Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật kinh doanh BĐS 2023, Luật các TCTD 2024. Sớm ban hành thể chế, khung pháp lý phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng.
  • Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Tập trung phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, đầu tư (đặc biệt là đầu tư tư nhân), tiêu dùng. Khai thác tốt các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng. Sớm ban hành và thực thi cơ chế thử nghiệm (sandbox), cơ chế thí điểm, đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon, Kế hoạch triển khai Quy hoạch điện VIII và cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp FDI khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng để tăng tính lan tỏa và cộng sinh.
  • Nâng cao hiệu quả điều hành, phối hợp chính sách: Đặc biệt là giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá và thị trường tài chính – tiền tệ, đảm bảo an sinh xã hội. Chính sách tài khóa cần giữ vai trò chủ lực, mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công và các chính sách miễn, giãn, hoãn thuế phí tương tự như năm 2023. Chính sách tiền tệ cần hỗ trợ chủ động, linh hoạt, tăng khả năng tiếp cận tín dụng gắn với kiểm soát rủi ro và xử lý nợ xấu, kiểm soát rủi ro hệ thống (ngân hàng – chứng khoán – bảo hiểm – bất động sản). Các thông tư về cho vay, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp và cơ cấu lại nợ cần sớm được sửa đổi.
  • Đẩy mạnh triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia và giải ngân đầu tư công: Tập trung vào các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đầu tư cơ sở hạ tầng và tháo gỡ vướng mắc trong triển khai. Chú trọng cơ cấu lại nền kinh tế để thu hút và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, đặc biệt là các dự án và các TCTD yếu kém.
  • Phục hồi và phát triển lành mạnh, bền vững thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản và thị trường vàng: Tháo gỡ vướng mắc pháp lý, quỹ đất, định giá đất, giải phóng mặt bằng đối với các dự án bất động sản để giải phóng nguồn lực. Hoàn thiện thể chế liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp và bất động sản, ban hành sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Thực hiện hiệu quả Quyết định 1726/QĐ-TTg về phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2030, nâng hạng thị trường chứng khoán năm 2025, kiểm soát rủi ro an ninh mạng, an toàn thông tin. Triển khai các chính sách phục hồi và phát triển thị trường bất động sản theo Nghị quyết 33/2023/NQ-CP, nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển nhà ở xã hội. Sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng để phát triển ổn định, giá vàng sát hơn giá quốc tế và giảm vàng hóa trong nền kinh tế.

Hãy để  FISA FINANCE là đối tác đáng tin cậy của bạn trong hành trình đầu tư. Đừng bỏ lỡ cơ hội tích lũy vững chắc và an toàn với sản phẩm đầu tư hàng đầu của chúng tôi. Đăng ký ngay để mở ra những cánh cửa mới cho tài chính của bạn!

 

Chia sẻ:
Facebook
Twitter
LinkedIn
Pinterest
Telegram

Tin liên quan